Hội truyền giáo
Dòng Tên từ Séc - Slovakia
Hoạt động truyền giáo trong thế kỷ 18 là một trong những mối liên lạc đầu tiên quan trọng nhất của cư dân các vùng đất Séc với Việt Nam. Hội truyền giáo Dòng Tên thâm nhập vào xã hội trong các
lĩnh vực lĩnh vực văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là nhờ vào các kiến thức về khoa học và nghệ
thuật. Các lĩnh vực quan trọng nhất làm cho họ nổi tiếng và qua đó đem lại vị trí trang trọng ở Nam Bộ và Bắc Bộ, tại triều
đình, đó là y dược khoa cũng như thiên văn học và toán học. "Đây là chỗ dựa duy nhất", Joseph Slezan Neugebauer viết
năm 1741, " bảo tồn vị trí Kitô
giáo của chúng tôi, qua mâu
thuẫn tục lệ nghi lễ rất
không may mắn, duy trì không
xảy ra tai họa và gìn giữ được sự sủng
ái của Nhà cầm quyền đối với người
châu Âu."
Trong số bảy nhà truyền giáo Séc cổ của
Hiệp hội Chúa Giêsu, phục vụ tại Việt Nam, chỉ có hai người gốc Séc (Bohemia), một sinh ra ở Slovakia (lúc
đó là Thượng Hungary), hai
người từ Slezska (một vùng
của Séc) hai người
còn lại đến từ dân tộc thiểu số gốc
Đức định cư tại Séc. Nhìn từ khía cạnh Dòng Tên khái niệm dân tộc hoàn toàn không quan trọng, nói đúng hơn không được đặc biệt quan tâm xem xét. Câu hỏi là ở chỗ bản thân các nhà truyền đạo nhận thức thế
nào về quốc tịch của mình. Ví dụ Karel Slamenský, gốc Slovakia, luôn nhận mình quốc tịch Séc, điều đó mang lại cho ông biệt danh "Bohemus".
Ban đầu không phải tất cả
đều được xác định cho việc
truyền đạo tại Việt Nam. Một số
không vào được Trung Hoa đã đi từ Macao vào Đông Dương, những
người khác ban đầu hướng đến là Nhật Bản, nhưng đã phải thay đổi do việc tất cả người châu Âu bị trục xuất. Viễn Đông được xác định gồm Nhật Bản, trong đó có cả Việt Nam và nhiều tỉnh của Trung Hoa.
Ở phía Bắc Việt Nam chỉ có Václav Paleček và
Jan Hoppe phục vụ. Paleček là người Séc đầu tiên bước chân lên lãnh thổ của miền Bắc Việt Nam (Tonkin). Năm người còn lại thực hiện các hoạt động của mình ở Nam Việt Nam (Kočinčína). Bản tóm tắt sau đây dữ liệu tiểu sử không may
rất sơ sài bởi vì nhiều thông tin về hoạt động của các thành viên này đã không được bảo tồn.
Linh
mục Dòng Tên quan trọng nhất
trong khu vực là Jan Köffler. Người Praha gốc Đức sinh ngày 19.6.1711 tham gia từ năm mười lăm tuổi, chưa học hết trung học cơ sở. Trong những năm 1727-1728 ông học tập trung tại trường
dòng Brno. Ba năm tiếp theo, tốt nghiệp triết học tại Olomouc. Sau đó thực hành giảng dạy tại
Český Krumlov, nơi ông giảng dạy năm thứ nhất trung học. Năm 1734 chuyển sang trường tại Zaháni Slezsku, ở đó giảng dạy ngữ
pháp. Năm 1735 là sự khởi đầu nghiên
cứu của ông về thần học tại Olomouc. Những năm tiếp theo học tập tại Pražské Klementinum. Ông dành thời gian cho tông đồ tù nhân. Tháng 10 năm 1731 ông được thụ phong tất cả ba phối: dưới phó tế, phó tế và chức linh mục. Điều này xảy ra
có lẽ vì ông chuẩn bị khởi
hành nhiệm vụ truyền giáo.
Năm 1738 ông lên đường tới
Lisbon. Ở đây ông học ngoại ngữ và chuyên môn truyền giáo đồng
thời chờ đoàn. Tháng 11 năm 1739 tầu rời bến tới Goa, vào tháng Bảy năm sau đến Macau. Cùng năm đó ông dời đến Nam Việt Nam (Kočinčína). Bắt đầu trở thành nhà hoạt
động truyền giáo sau hai năm, chắc hẳn do việc học tiếng Việt. Trong tài
liệu năm 1747 được liệt kê là bác
sỹ. Chẳng bao lâu ông xây dựng danh tiếng bởi y thuật của mình và sau cái chết của Slamenský
(xem tiếp sau) được mời vào triều đình thay vị trí bác sĩ hoàng cung của Slamenský, trở thành nhà chiêm tinh và nhà toán học. Vị trí của ông tại
hoàng cung, không bị
lung lay bởi sắc lệnh nhà vua trục xuất tất cả các nhà truyền giáo ra khỏi nước. Chỉ mình ông được phép ở lại và tiếp tục làm việc. Nhưng năm
1755, kể cả ông do sự xúi
giục của kẻ thù Kitô giáo bị buộc phải ra thuyền trở lại Macau. Ông
ở lại đây bốn năm và cuối cùng lên thuyền qua Thái Bình Dương đến Nam Mỹ. Ông hoạt động chui một thời gian ở Paraguay (1760-1762), bị bắt và trục xuất về Bồ Đào Nha, nơi
ông bị giam giữ trong pháo đài thánh St. Juliao gần Lisbon. Ba năm sau nhờ sự can thiệp của Maria Theresa ông được tha. Trong một vài tháng giảng dạy tại trường
đại học Dòng Tên ở Vienna.
Cùng năm đó ông chuyển sang trường dòng ở Litoměřice trở thành praefectus et Primus
Nostrorum Confessor. Ông không muốn sự yên tĩnh nên yêu cầu được cử đi truyền giáo.
Năm 1769, ông ra đi như
một nhà truyền giáo dân gian tới phần Hungary Transylvánie – Sedmihradska. Tại đây ông nhận thông
cáo về việc bãi bỏ quyền
thành viên, nhưng vẫn ở lại
Sedmihradsko cho đến khi qua đời
tháng 12 năm 1780.
Ngoài năm lá thư viết trong những năm hoạt động của mình tại hoàng cung Kočinčína, ông là tác giả của tập tin Historica
Cochinchinae descriptio. Đây là công trình quan trọng nhất của ông nói về lịch sử chia cắt Việt
Nam, viết trong thời gian bị
tù ở Bồ Đào Nha. Các tập tin
được lưu giữ trong gia quyến
của mình và lần đầu tiên xuất bản tại Nuremberg năm 1803 bởi Kryštof Theofil de Murr. Ông cũng là tác giả của tập tin Elogium Francisci
de Cunha, sinensis, Soc. Jesu Scholastici, in carceribus Lusitanicis defuncti,
do cùng một nhà xuất bản.
Jan Gruber sinh 8.10.1708 tại Nymburk, năm 1725 ông gia nhập hội
truyền giáo Dòng Tên tại trường
dòng Brno. Từ 1728 đến 1730, ông
nghiên cứu triết học ở Olomouc, sau khi kết thúc ông chuyển đến Huấn Quyền tại Uherské Hradiště (1730-1733). Năm 1734 trở về học đại học
tại Olomouc, thời gian này ông học thần học. Sau khi được thụ phong linh mục, cuối năm 1737 được cử đi truyền giáo. Địa điểm hoạt động chính là kinh đô Sin-ho của
Kočinčína (sau này là Huế). Thông tin về cái chết của ông, Jan
Siebert viết trong một văn bản gửi
về châu Âu vào năm 1741. Gruber đã
chết sau khi bị bệnh nặng ngày
23.7.1741 tại Bar-ya.
Josef Neugebauer, người Slezsko gốc Đức, sinh ngày 18.5.1705
tại Frankenstein, ông vào nhà dòng
để nghiên cứu, khoảng trước năm 1729. Cuối
tháng Mười năm đó ông được thụ phong linh mục. Từ năm
1736 ông chuẩn bị cho công việc
truyền giáo ở Hậu Ấn Độ.
Năm 1739, ông đến Kočinčína, nơi hoạt động như một nhà thiên văn học và bán
thuốc ở các khu vực phía Bắc. Sau
khi các nhà truyền giáo bị trục
xuất năm 1749 ông cùng họ
trở lại Macau. Từ đây ông gửi
báo cáo cuối cùng ngày 2.11.1752. Tiếp đó tên ông được nhắc đến trong danh
mục các nhà truyền giáo tại
Áo vào năm 1758. Không có các báo cáo khác về ông. Từ các tài liệu lưu trữ sau này có mười hai lá thư dài. Ba lá thư đầu tiên gửi từ Goa, Ấn
Độ đến Lisbon, lá thư thứ tư được gửi từ Macau, cùng ba lá thư
cuối cùng. Lá thứ năm tới thứ chín
từ Kočinčína.
Jan Siebert, người Séc gốc Đức
từ Jihlava, sinh ngày 28.5.1708. vào hội truyền giáo Dòng Tên tại Brno ngày 10.10.1723. Sau khi tốt nghiệp trường dòng, ông học tại trường Đại học tổng
hợp Karlo-Ferdinand tại Praha, nghiên
cứu triết học. Trải qua các tu viện ở Litoměřice, Cheb và
Vratislavi. Cuối cùng tốt nghiệp khoa thần
học tại Praha. Năm 1737 ông được cử
đi Kočinčína và rất nhanh chóng trở thành một nhân vật được
công nhận nhờ kiến thức hiểu
biết khoa học tự nhiên của mình. Ông nhận lời mời đến triều đình,
nơi ông được trao chức quan.
Ông trở thành bác sĩ riêng của vua và nhà toán học triều đình. Tất cả lợi thế này được Siebert sử dụng để thuyết phục
cứu các cộng đồng làng Kitô bị đe dọa ở Kočinčína. Ông qua đời tại Sin-ho 12.9.1745, để lại ba bức
thư, tất cả viết tại Kinh đô. Hai bức gửi bá tước đế chế von Fugger zu
Wellenburg, lá thứ ba tới Hội Dòng Tên.
Một nhân
vật thú vị khác là người gốc Slovakia Slamenský Karel (cũng gọi là Slaminský).
Ông sinh năm 1708 ở đâu đó tại Thượng
Hungary. Ông không được đào
tạo trong các tổ chức tu viện. Ban đầu là bác sĩ phẫu thuật trưởng của trung đoàn d’olonského dragounského pluku ở Hungary và Transylvania (Sedmihradsko). Từ những hoàn cảnh chưa
biết ông qua Ba Lan, Gdaňsk
và Amsterdam tới Lisabon. Từ đó ông
đi thuyền buồm với một đoàn
thám hiểm truyền giáo tới Goa,
Tiền Ấn Độ, tại đây năm 1736, ông tham gia hội. Sau mười năm làm việc ở Ấn Độ, ông lên thuyền tới
Kočinčína (Nam Bộ). Nhìn chung là bất thường khi mãi tại đây ông mới được thụ phong linh mục. Ông sử dụng rộng rãi nghề cũ của mình để qua đó truyền bá tư tưởng Kitô giáo. Từ tháng 3.1747, ông thay thế Jan Siebert chức năng bác
sĩ triều đình tại kinh đô. Ông đã không làm việc được lâu bởi
qua đời vào tháng 6 năm 1747.
Václav Paleček sinh năm 1704 tại Praha. Ban đầu ông được xác định đi truyền giáo tại Nhật Bản, nhưng cuối cùng do thiếu
linh mục ở Bắc Bộ (Tonkin),
nơi ông đến vào năm 1736. Ông có công cho sự phát triển của sứ mệnh Công giáo và ngăn chặn việc đàn áp các Kitô hữu ở Bắc Kỳ. Từ số phận của ông người ta chỉ được biết đến năm 1760 ông bị trục xuất. Đã bảo quản được bài luận
ngắn về ông trong bức thư của Florian Bahr, thành viên Dòng Tên gốc Séc làm
việc ở Trung Hoa.
Nhà truyền giáo thứ hai,
xuất hiện ở Bắc Kỳ, là người bản xứ Slezsko từ Svídnice Jan Hoppe. Sinh ngày 12.7.1708, nhập hội tại Brno. Năm 1735 ông được thụ phong linh mục. Ban đầu ông được cử
sang Nhật Bản năm 1737. Có khả năng chỉ đến được Macao. Từ đó ông lên thuyền với Jan Köffler đến Kočinčína vào năm 1739 hoặc 1740. Công việc truyền giáo thực hiện cùng với Köffler tại các tỉnh
phía Bắc. Từ thời kỳ này bảo
tồn được hai bức thư gửi cho Maria
Anna, Nữ hoàng của Bồ Đào Nha. Sau
đó đến Bắc Bộ (Tonkin) ra sao không ai biết. Tuy nhiên có thể nhận định rằng, sau khi các linh mục ở đây bị trục xuất khỏi Kočinčína ông đến đây thông qua Macao. Một thực tế đáng chú ý rằng ông vẫn
còn ở lại đây ngay cả sau khi bị
xóa tên hội viên Dòng Tên. Hoppe hoạt động dài nhất tại Việt Nam. Ông ở lại Tonkin cho đến khi
chết, năm 1783.
Karel Kucera