Pozdrav

Tady jsi doma, jen tady a nikde jinde je to tvá země, tobě patří a ty patříš k ní, jenom k ní.

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Kỷ niệm về một người bạn



     Năm 1975, vừa về nước được mấy ngày, tôi đạp 
xe lên Bộ Đại Học ở số 9 Hai Bà Trưng Hà nội làm 
thủ tục về nước. Đang hỏi đường ở trước Nhà hát 
lớn, tôi nghe có người gọi tên mình. Quay sang 
phía chiều ngược lại, tôi thấy khuôn mặt quen quen, 
hình như mình đã gặp ở đâu đó lâu rồi. Một chàng 
trai nhoẻn miệng cười rất tươi với tôi và nói:
- Anh không nhận ra em à? Em là Dũng đây mà, cách 
đây 3 năm khi em mới sang Tiệp Khắc, anh đã đón bọn 
em ở Praha, anh quên rồi à?
Mặc dù cũng chưa nhớ ra cậu ta tên là gì nhưng 
tôi cũng ậm ờ:
- Quên sao được những năm tháng tuyệt vời ấy!
Tôi hỏi:
- Sao ông lại về giữa chừng thế này?
- Chẳng may đứt gánh giữa đường nên đành chịu về 
ăn bám mẹ thôi.
-Buồn quá nhỉ! Nhưng cậu còn trẻ, cứ học trong 
nước, sau vài năm quay lại cũng được!
-Biết đến bao giờ trở lại đó được! Trước mắt em 
sẽ xin học trong nước rồi kiếm việc giúp đỡ mẹ em 
cái đã!
- À Mà cậu tên gì nhỉ, tớ quên mất rồi.
- Em tên là Dũng, Hoàng Dũng.
Sau đó Dũng hỏi đi đâu hay về nhà Dũng chơi. Nghe 
tôi nói, tôi phải lên Bộ Đại học, Dũng tình nguyện 
làm người đưa đường cho tôi. Vậy là chúng tôi quấn 
quýt bên nhau suốt ngày hôm đó. Hẹn Dũng sau khi 
về quê lên, tôi sẽ tới nhà tìm Dũng và trò chuyện 
tiếp.
Về quê 2 tháng trời, khi nhận được giấy báo phân 
công công tác tôi mới lên Hà nội. Sau vài ngày làm 
xong thủ tục về công tác tại Viện Toán Học, tôi tới 
Khu Tập Thể Nguyễn Công Trứ tìm Dũng. Gia đình 
Dũng ở ngay phòng đầu tiên, tầng 1 của Khu tập thể 
Nguyễn Công trứ, có lẽ là khu tập thể được xây 
dựng đầu tiên ở Hà nội trong thời kỳ Xã hội chủ 
nghĩa ở Miền Bắc. Chỉ có cán bộ cao cấp hay gia 
đình thuộc diện chính sách mới được tiêu chuẩn ở. 
Từ khi chợ trời hình thành ở phố Trần Cao Vân thì 
khu tập thể này có một vị trí vô cùng quan trọng. 
Dân buôn chợ trời thèm khát có được nơi ở như nhà 
Dũng. Ngay cả bây giờ, nơi này cũng đắc địa, là 
nơi hái ra tiền mà trong tay không cần đến bất kỳ 
loại bằng cấp nào cả, kể cả bằng TS kinh tế của ĐH 
Haward Hoa Kỳ. Tôi và Dũng say sưa kể chuyện bên 
Tây, bên ta, chuyện học hành, mối tình nọ, mối tình 
kia của mình, của bạn bè… Thấy mẹ Dũng đi làm về ăn 
cơm trưa, hai đứa mới biết đã hết buổi sáng. Dũng 
giới thiệu với mẹ về tôi. 
Bà rất vui khi Dũng có bạn tới chơi. Bà mẹ Dũng nói 
rất dịu dàng và ân cần hỏi quê quán, bố mẹ, anh em 
nội ngoại như thói quen của người Việt nam mình khi 
mới gặp nhau. Bà hỏi tôi về chuyện học hành ở bên 
Tiệp. Tôi thưa với bà là học bên Tiệp khó lắm, 
tiếng Tiệp khó nhất thế giới, nghe giảng bài bằng 
tiếng Tiệp còn khó hơn cả vịt nghe sấm. Bà bảo tôi 
xạo, vì có biết tiếng các nước khác đâu mà nói liều 
vậy! Tôi cười trừ cho xong chuyện. Tôi xin phép về, 
bà mời ở lại ăn cơm với gia đình. Phần vì đã trưa 
rồi, phần vì trong túi cũng chẳng có tiền, phần vì 
ngửi thấy mùi cá biển rán thơm phức và nhìn thấy 
những miếng đậu phụ dim cà chua vàng óng đến là 
hấp dẫn tôi không thể không ở lại ăn cơm. Nghỉ trưa 
xong bà lại đi làm. Trước khi đi bà không quên 
nhắc Dũng ở nhà tiếp đãi mình đàng hoàng, hai đứa 
đi đâu nhớ khóa cửa cẩn thận. Tôi còn nhớ hồi ấy 
bà làm thư ký cho bà Nguyễn Thị Thập, chủ tịch Hội 
phụ nữ Việt nam, cơ quan ở ngay phố Hàng Chuối. 
   Buổi chiều Dũng theo tôi về cơ quan Viện Toán 
ở 208 D phố Đội Cấn. Gọi là Viện Toán cho oai chứ 
thực ra chỉ có một dãy nhà vách đất, lợp bằng lá 
gồi, cửa chưa có, gió ra vào thỏa thích. Phòng tôi 
làm việc cũng là ngủ, không giường chiếu, tủ nọ, 
tủ kia gì cả, chỉ có ba cái bàn và ba cái ghế chỏng 
chơ giữa phòng. Thấy lạ, Dũng hỏi tôi ngủ ở đâu. 
Tôi bảo: 
- Ngủ trên bàn. Dũng ái ngại, không tin. Sau một 
hồi im lặng chẳng ai nói với ai câu nào, thỉnh 
thoảng Dũng chỉ chép miệng và lắc đầu. Để phá vỡ 
không khí căng thẳng, tôi bảo Dũng được ở như vậy 
là tốt lắm rồi, khối người còn không cả có chỗ 
ngồi nữa đấy chứ! Tôi còn khoe với Dũng tuần tới 
sẽ rủ Đinh Văn Vinh mới từ Tiệp về ở cùng cho vui 
vì Vinh cũng chẳng có ai quen ở Hà nội, cứ bơ vơ 
mỗi khi ra Hà nội. Dũng bảo:
- Nhà em có một cái giường bằng sắt kiểu bệnh viên 
nhận viện trợ từ các nước XHCN. Em sẽ hỏi mẹ em để 
cho anh dùng, giường này tốt lắm, hai người nằm 
thoải mái. 
Trong đầu tôi lóe lên tia hy vọng. Tuy vậy, tôi 
cũng nói tỏ vẻ khách sáo:
- Như vậy còn gì bằng nữa. Nhưng, mình sợ làm phiền 
mẹ Dũng quá.
Dũng bảo tôi cứ yên tâm, để Dũng lo. Mẹ Dũng hay 
thương người lắm mà!
Chiều hôm sau, khoảng 2 giờ, tôi vừa ngủ dậy đã 
thấy Dũng đứng ngoài mái hiên, gần của ra vào. 
Dũng bảo tôi mặc quần áo nhanh lên để đến nhà Dũng 
lấy giường. Tôi hỏi lại Dũng:
- Mẹ cậu đồng ý rồi à?
- Sao lại không đồng ý! Mẹ em còn hỏi anh cần gì 
nữa không?
Đến nhà Dũng đã thấy chiếc giường sắt sạch bóng 
để ngay trước cửa ra vào cùng với dây thừng để buộc 
cẩn thận. Tôi và Dũng hí hoáy luồn một cái sào dài 
hơn 2 mét vào thành giường và buộc một đầu sào vào 
cột yên của xe Dũng và một đầu vào ghi đông xe của 
tôi. Hai đứa cố lên xe đạp,nhưng không đạp được 
đành dắt bộ suốt từ khu TT Nguyễn Công Trứ về Viện 
Toán ở 208 D Đội Cấn, gần chục cây số. Về tới Viện 
Toán đã hơn 8 giờ tối. Hai thằng lại hì hục kê 
giường cạnh ngay cửa sổ nhìn ra ao rau muống của 
HTX Núi Bò mát rượi. Xong xuôi rồi Dũng lại mời tôi 
đi ăn phở mừng tôi có giường mới. Hôm sau Dũng tới 
nói với tôi:
- Hôm qua em về tới nhà đã hơn 10 giờ, má em cứ lo 
xảy ra chuyện gì. Khi thấy em về bà mừng quá. Em 
kể là đã kê giường cho anh tử tế rồi. Vậy bà mới 
yên tâm.
Tôi gửi lời Dũng về cảm ơn tấm lòng của bà và hẹn 
lúc nào rỗi sẽ tới thăm và cám ơn bà sau.
Dũng biết tôi có cô bạn ôn thi đại học, ngày nào 
cũng tới thư viện ở phố Lý thường Kiệt học với tôi, 
lúc nào cũng quấn lấy tôi như hình với bóng. Dũng 
hay mời tới nhà làm cơm đãi đàng hoàng. Cô bạn tôi 
cứ khen Dũng hiền lành, tử tế và khéo nấu ăn. Dũng 
thì khen cô đẹp, xinh. Nghe vậy tôi cũng thấy buồn 
buồn. Có lần tôi hỏi thực Dũng;
- Nếu mày thích nó, tao làm mối cho. Tao với nó 
đối xử với nhau như anh em ruột, không có chuyện 
gì đâu.
Dũng bảo:
- “Cái gì của vua thì trả cho vua, cái gì của chúa 
thì trả cho chúa”.
Hai đứa cùng cười và từ đấy không ai nhắc đến 
chuyện này nữa. 
Có lần tới nhà Dũng, Dũng hồ hởi đón tiếp từ ngoài 
cửa:
- May quá! Chị gái em vừa tốt nghiệp bên Nga về tối 
hôm qua, vào đây em giới thiệu.
Tôi hỏi chuyện chị Dũng mới biết chúng tôi tốt 
nghiệp phổ thông cùng một năm. Tôi được sang Tiệp 
còn chị Dũng sang Nga.
Nhân lúc chị Dũng ra ngoài, Dũng nói đùa:
- Nếu anh thích chị em thì em xin làm nội ứng, nhất 
định thành công!
- Mình đâu dám ”đũa mốc lại đòi mâm son”, tôi nói 
đùa.
- Anh không thích cứ nói rằng không, việc gì phải 
mượn đến ca dao tục ngữ để từ chối.
Vừa lúc chị Dũng trở về nên câu chuyên bỏ dở cho 
đến tận bây giờ cũng không có ý định tiếp tục.
 
     Hôm Dũng rủ tôi tới thăm Lệ - một cô bạn Dũng 
vừa về từ Tiệp Khắc. Bọn tôi vui vẻ nhắc lại với 
nhau những kỷ niệm của những ngày sống bên Tiệp, 
nhũng quan hệ bạn bè mới cũ bây giờ làm gì… Lệ là 
một cô gái xinh đẹp, cao to, có lẽ phải cao tới 
1 mét 7. Lệ nói chuyện rất có duyên, đặc biệt có 
điệu cười rất đôn hậu và quyến rũ con trai.
Lúc về, tôi ướm hỏi Dũng:
- Nếu ông có ý định, tôi xin ủng hộ và sẵn sàng 
điếu đón cho ông những lúc ông cần.
Dũng bảo:
- Lệ đẹp như vậy, em thì nhỏ con như thế này, 
không xứng với nhau. Bọn em qúi nhau lắm và cũng 
đã xác định không lấy nhau và sẽ làm bạn suốt đời.
- Ông không nên tự ti như thế. Ông nên nhớ: “Con 
ong đốt chột quả bầu đấy”. Thời buổi này mà bọn mày 
còn định áp dụng tiểu thuyết vào cuộc sống của 
riêng mình thì buồn cười thật đấy.
- Đấy rồi anh xem.
Một năm sau Dũng cùng gia đình chuyển vào Sài gòn. 
Năm đầu tôi và Dũng còn thường xuyên thư từ qua lại. 
Sau tôi vấp vào chuyện gia đình rắc rối nên thư qua 
lại thưa dần và tới lúc lịm hẳn. Cách đây mấy tháng, 
tôi thấy ảnh Dũng ngồi uống bia cùng mấy bạn trong 
làng Dân Tiệp chúng mình. Tôi có ý định tìm lại 
liên lạc và tiếp tục trao đổi quan hệ tình cảm với 
Dũng như xưa. Có ai ngờ hôm qua mở e-mail của làng 
ra mới hay Dũng đã đi rồi.
     Tôi viết vội vài dòng này gửi tới các bạn và 
coi như đốt nén nhang tiễn biệt Dũng về nơi an nghỉ 
vĩnh hằng. Cầu mong linh hồn Dũng được siêu thoát.  
 
nxtan@math.ac.vn

Xin lỗi anh gì (TẤN?): Viết ẩu quá, thiếu dấu, sai ngữ pháp, nhưng chắc anh viết 
tiếng Séc còn chuẩn, dân Mafis mà (đùa thôi nhé, BBT xin phép chỉnh sửa để đưa lên cho đẹp).

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

TIN BUỒN

Dân Tiệp thông báo tin buồn

HOÀNG DŨNG (Velký Dung) là lưu học sinh miền Nam sang Tiệp Khắc năm 1971 (học tại Teplice). 
Về nước năm 1973 sau này tiếp tục học đại học tại Cần Thơ.
Sống ở tp. Hồ Chí Minh. 
Từ trần: 15 H 30  ngày  19.02.2012 ( 28  tháng Giệng Nhâm Thìn )
Hưởng thọ: 60 tuổi
Nhập  quan: 21 H ngày  19.02.2012
Tại  Nhà riệng ( Góc Trân cao Van + Phùng Khắc Hoan – Q. 1 )
Động quan: 6 H ngày  24.02.2012 ( 3.2 Nhâm Thìn )

Thư chia buồn có thể gửi tới email: dantiep@btsoft.net hoặc dantiep@seznam.cz

 Xin chân thành gửi lời chia buồn tới gia đình Hoàng Dũng

 Hoàng Dũng 11.2011

Q. Bình, Hoàng Dũng, Đ. Bình, V. Dũng 

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

Trần Trọng Kim với Việt Nam Sử Lược



 Một buổi chiều cuối năm 1962, sau hồi kẻng “thu không” khoảng 15, tôi theo thầy Trần Quốc Vượng ra khỏi lớp. Lúc đó, mấy lối đi về phía nhà ăn của Ký túc xá Láng học trò trường Trung học Trung Hoa và sinh viên Khoa Xã hội trường Đại học Tổng hợp đã gõ đũa vào bát lanh canh.
Là một học sinh xuất thân từ trường Bổ túc Văn hoá Công Nông Nghệ An, vì trường ở Cổng Chốt cháy phải ra Đông Triều rồi vào Đại học, tôi có tuổi đờì xấp xỉ tuổi thầy, nên tình thầy trò cũng là tình anh em. Thân thiện và cởi mở đã tạo cho tôi nhiều cơ hội gần gũi các thầy.
Đi dọc hành lang từ lớp ra đường trục, thầy Vượng đảo mắt rất nhanh rồi khe khẽ nhắc tôi: “Hãy tìm cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim mà đọc”. Lời căn dặn dè dặt chỉ đủ cho tôi nghe nhưng sao mà ấm áp vậy. Việt Nam Sử Lược như một dòng sữa ngọt rót vào tâm hồn tôi từ buổi chiều đáng nhớ đó.
“Thánh nhân đãi khù khờ”. Thầy Đặng Huy Vận đã lôi dưới đáy rương ra cho tôi mượn cuốn sách mà thầy Vượng khuyên tìm đọc. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thời đó là sách cấm. Phòng đọc hạn chế của Thư viện Quốc gia ở số 31 đường Trường Thi cũng không ló ra.
Thế là từ buổi chiều thủ thỉ ấy, tôi nhận biết một Trần Quốc Vượng bên trong Trần Quốc Vượng trên bục giảng của đời sống hiện đại. Theo chỉ bảo của thầy Vượng, tôi nghiền ngẫm cuốn sách này và mãi cho đến nay, mỗi lần cần viện đến chứng cứ lịch sử, tôi vẫn phải nhờ Trần Trọng Kim.
Lời khuyên thật lòng đó với tôi hơn vạn bài giảng văn hoa cao xa dông dài. Viết như vậy mới đích thực là nhà sử học. Có nói có. Không nói không. Sai nói sai. Đúng nói đúng. Dường như mọi diễn biến lịch sử trên đất nước ta trước thế kỷ XX, tác giả không bỏ sót một sự kiện quan trọng nào. Minh bạch, mạch lạc, rõ ràng trình ra trên từng dòng, từng trang sách. Tác giả không đứng về một họ chỉ để viết cho dòng họ ấy mà đứng trên cái chung để viết cho mọi độc giả. Quan điểm riêng của người viết là ở phần nhận xét đánh giá kết luận. Công bằng và khách quan đấy chứ. Điều đó khác với mọi cuốn sử, sách giáo khoa văn sử về sau. Đương nhiên tác giả cũng là một con người. Đã là con người thì mấy ai tránh khỏi lệ “nhân vô thập toàn”. Hạn chế của tác giả nằm vào năm 1919 khi ông mới ngoài 30 tuổi, mà phần nhân loại sinh tụ trên lãnh thổ Việt Nam còn tối tăm mù mịt. Pháp đó. Vua quan đó. Người viết phải lách là điều hiển nhiên. Không lách là không có sách. Lách nhưng không hèn. Một ngôi sao trong đêm tối toả sáng đến vậy là đủ dẫn dắt rồi. Đó là điều đáng kính phục. Trần Trọng Kim không làm hài lòng ai khi ông nặng lời lên án Hồ Quý Ly tàn bạo, gian manh, lên án Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhượng đất. Về lịch sử, ông viết hoàn toàn dựa trên cứ liệu lịch sử. Về quan điểm khen hay chê thuộc quyền riêng của mỗi người. Điều bất bình thường hiện nay là hễ ai không phụ hoạ mình là xấu, là sai, là thù. Cái lẽ nhất thời này không nằm trong phương pháp luận sử học. Ngoài ông, ngoài tôi còn có bàn dân, còn có mai sau.
“Nhìn về quá khứ để xây dựng tương lai bền vững” đang được nhiều quốc gia phát triển chọn làm phương châm xử thế. Sử học góp phần giúp điều chỉnh xã hội chính là chỗ đó. Ngược lại. Đương nhiên là lộn đường.
Xin trích vài đoạn trong Việt Nam Sử Lược:
“4. Nghệ Tông thất chính – Vua Nghệ Tông tuy giữ quyền chính trị, nhưng việc gì cũng do ở Lê Qúi Ly. Triều thần thì chỉ có những mặt xu nịnh, người nào cũng chỉ lo lấy thân mà thôi, việc nước an nguy thế nào không ai lo nghĩ đến. Những người tôn thất như Trần Nguyên Đán thấy quốc chính rã rời, xin về trí sĩ. Một hôm Thượng hoàng đến thăm bàn đến hậu sự, Nguyên Đán tâu rằng: “Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm thành như con, thì quốc gia sẽ không việc gì, mà lão thần chết cũng không hẩm!” Ấy là chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ mà thôi, chứ không có chí muốn cho nước mình cường thịnh. Nguyên Đán biết rằng Quí Ly rồi tất cướp ngôi nhà Trần, liên kết làm thông gia, vì thế cho nên sau dòng dõi nhà Trần chết cả, duy chỉ có con cái nhà Nguyên Đán được phú quý mà thôi.
Nghệ Tông Thượng hoàng thì cứ mờ mịt không biết ai trung ai nịnh, vẫn tưởng là Lê Quí Ly hết lòng với nhà vua, bèn cho Lê Quí Ly gươm và cờ có chữ đề rằng: “Văn võ toàn tài, quân thần dũng đức”. Lê Quí Ly làm thơ nôm dâng tạ.
5. Lê Quí Ly mưu giết đế hiền – Bấy giờ Đế Hiển thấy Thượng hoàng yêu dùng Quí Ly, mới bàn với các quan rằng nếu không trừ đi rồi sau tất thành ra vạ to. Quí Ly biết mưu ấy, đến kêu van với Thượng hoàng rằng: cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ. Thượng hoàng nghe lời, xuống chiếu trách Đế Hiển còn tính trẻ con và lại có ý hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc; vậy phải giáng xuống làm Minh đức đại vương, và lập Chiêu định vương là con Nghệ tông lên nối ngôi.
Khi tờ chiếu ấy bố cáo ra ngoài, có mấy người tướng quân đã toan đưa quân vào điện cứu Đế Hiển ra, nhưng vua viết hai chữ “giải giáp” và không cho được trái mệnh của Thượng hoàng. Sau Đế Hiển bị thắt cổ chết, còn những tướng sĩ đồng mưu giết Quí Ly đều bị hại cả” (Việt Nam Sử Lược, tr. 174, 175, tái bản lần thứ 6, Sài Gòn, 1960)
3. Nghệ Tông mất-Đến tháng chạp năm giáp tuất (1394) thì Thượng hoàng mất. Trị vì được 3 năm, làm Thái Thượng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi.
Nghệ tông là ông vua rất tầm thường, chí khí đã không có, trí lự cũng kém hèn, để cho kẻ gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những kẻ trung thần nghĩa sĩ; cứ yêu dùng một Quí Ly, cho được quyền thế, đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà Trần.
Dẫu rằng đến khi vận nước đã suy, không có điều này cũng có điều nọ, tựa hồ người đã già không phải bệnh nọ thì cũng mắc bệnh kia, nhưng cứ sự thực mà xét, thì cũng vì vua Nghệ tông cho nên cơ nghiệp nhà Trần mới mất về tay Quí Ly; mà cũng vì sự rối loạn ấy, cho nên giặc nhà Minh mới có cơ sở mà sang cướp phá nước Nam trong 20 năm trời.
Một điều Trần Trọng Kim không viết, nhưng chắc ông cũng thừa biết là Trần Nghệ Tông đã thay Trần Thủ Độ trả món nợ cũ cho nhà Lý đấy thôi.
Nhân – Quả mà.
“Quí Ly bắt Thuận tông nhường ngôi rồi, lập Thái tử là Án lên làm vua. Thái tử bấy giờ mới có 3 tuổi, tức là Thiếu đế, niên hiệu là Kiến tân
Lê Quí Ly làm phụ-chính tự xưng làm Khâm-đức hưng liệt đại vương, rồi sai người giết Thuận tông đi.
Bấy giờ triều đình có những người như là Thái bảo Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng quân Trần Khát Chân lập hội để mưu trừ Quí Ly, chẳng may sự lộ ra, bị giết đến 370 người.
Lê Quí Ly lại xưng là Quốc tổ chương hoàng, ở cung Nhân thọ, ra vào dùng nghi vệ của Thiên tử. Đến tháng hai năm canh thìn (1400) Quí Ly bỏ Thiếu đế rồi tự xưng làm vua thay ngôi nhà Trần”. (Sdd, tr.177 – 181)
Sau đó không lâu thì lời thề “Nếu hạ thần không hết lòng, hết sức giúp nhà vua, thì trời tru đất diệt” ứng nghiệm.
Có hay không những điều như thế ở thời Trần mạt là điều cần bàn, cần xác minh. Còn việc khen hay chê Lê/Hồ Quí Ly lại thuộc về nhận thức, quan điểm, thái độ của mỗi cá nhân. Người cho như thế là bất lương gian hùng, thì chê. Thiết nghĩ khen hay chê đều thuộc về nhân tâm, về nhận thức mà cũng là quyền sơ đẳng của mỗi con người.
Một người viết lịch sử rạch ròi, phân minh như Trần Trọng Kim, thì hẳn nhân cách của ông ra sao cũng là điều đáng cho ta suy ngẫm. Trần Trọng Kim bị/được chỉ định thành lập Chính phủ, trình danh sách Nội các lên vua Bảo Đại phê chuẩn vào ngày 17-4-1945 và ra mắt Quốc dân 2 ngày sau đó (19 – 4 – 1945)
Như chúng ta đều biết, vào thời điểm này Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bước vào giai đoạn kết. Hồng quân Liên Xô đang dũng mãnh tấn công phát xít Đức. Phe Đồng Minh mở mặt trận mới. Nhật liên tiếp chiến bại chịu nhiều tổn thất nặng nề. Paris đã được giải phóng. Charles de Gaulle lăm le giành lại thuộc địa. Các nước phương Đông đang tìm cách thoát khỏi ách thống trị thực dân. Nước ta trong khoảnh khắc đó giống như một con thuyền giữa sóng gió giông bão chưa rõ người chống chèo. Trong lúc nguy nan, ai dám nhảy ra nên được coi là tiên phong dũng cảm. Bởi nước là của chung. Mọi người yêu nước đều có quyền cứu nước theo suy nghĩ, hiểu biết, tấm lòng và năng lực của mình. Sự lựa chọn của số nhân sĩ trí thức tập hợp chung quanh Trần Trọng Kim diễn ra giữa bối cảnh Pháp sắp quay lại, Nhật sẽ ra đi. Từ tình thế nước sôi lửa bỏng lúc đó nên chọn ai? Pháp hay Nhật? Tìm điểm tựa mà thực hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc một cách ôn hoà không đổ máu giữa hai đối tượng này cũng là một bài toán theo yêu cầu tình thế. Phong trào Đông du để đánh Pháp của Phan Sào Nam chưa xa, nhất là đối với người Nghệ. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh còn gần hơn mà tầng lớp nhân sĩ, trí thức lại sợ “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là chuyện đã xảy ra. Xin đừng coi sự lựa chọn trong tình cảnh chẳng đặng đừng để nhờ vả mà tìm một lối thoát cho quốc gia dân tộc là cúi đầu làm tay sai. Đã đến lúc phải nói với nhau rằng không phải hễ khác mình đều là kẻ thù. Trăm nẻo đường có thể đến cùng một đích. Xin hãy trọng nhau sự chung lòng đó.
Là một học giả sinh ra không để làm chính trị, không hề có tham vọng quyền lực, Trần Trọng Kim thực sự chưa hề chuẩn bị làm chính khách đứng ra thành lập Chính phủ. Nhân tình thế chủ quan, khách quan của đất nước nửa đầu năm 1945 và qua những lần tiếp xúc với một nhà ngoại giao Thái Lan, Trần Trọng Kim trăn trở, vỡ lẽ, nhận ra con đường thực thi phận sự công dân trước vận mệnh Tổ quốc. Hình hài về một thể chế Quân chủ Lập hiến kiểu Thái Lan bắt đầu manh nha trong tấm lòng nhà sử học – tác giả của một tác phẩm lịch sử để đời.
Tôi muốn nói điều này vì Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập đơn giản bao nhiêu thì cáo chung cũng nhẹ nhàng, thanh thản bấy nhiêu. Dường như không có ai trong số những người được cơ cấu Nội các Trần Trọng Kim cay cú bực dọc phản ứng thù hận. Và, nếu họ là bù nhìn tay sai Nhật thực sự thì ngay thời điểm đó và cả sau này nữa, nhiều lần ta cần viện đến họ, vẫy gọi họ làm gì! “Hãy nói rõ bạn anh cho tôi. Tôi sẽ biết anh là người thế nào”.
Xin liệt kê ra đây danh sách Nội các Trần Trọng Kim:
  1. Trần Trọng Kim, Giáo sư, Học giả, nhà Sử học: Thủ tướng.
  2. Trần Văn Chương, Luật sư: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.
  3. Trần Đình Nam, Y sĩ: Bộ trưởng Nội vụ.
  4. Trịnh Đình Thảo, Luật sư: Bộ trưởng Tư pháp.
  5. Hoàng Xuân Hãn, Thạc sĩ Toán: Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ.
  6. Vũ Văn Hiền, Luật sư: Bộ trưởng Tài chính.
  7. Phan Anh, Luật sư: Bộ trưởng Thanh niên.
  8. Lưu Văn Lang, Kỹ sư: Bộ trưởng Công chính.
  9. Vũ Ngọc Anh, Bác sĩ: Bộ trưởng Y tế.
  10. Hồ Tá Khanh, Bác sĩ: Bộ trưởng Kinh tế.
  11. Nguyễn Hữu Thi, cựu Y sĩ: Bộ trưởng Tiếp tế.
Ngoài 11 thành viên Nội các, Chính phủ Trần Trọng Kim còn bổ nhiệm mấy vị sau đây đảm nhận trọng trách ở các địa phương xung yếu:
Phan Kế Toại: Khâm sai Bắc bộ.
Nguyễn Văn Sâm: Khâm sai Nam bộ.
Trần Văn Lai: Đốc lý Hà Nội.
Đặng Văn Hướng: Tổng đốc Nghệ An.
Kha Vạn Kân: Đô trưởng Sài Gòn.
Trong số 16 người trên, phần nhiều về sau đã trở thành cán bộ cao cấp của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thiết nghĩ nếu họ là bù nhìn tay sai Nhật thì sao được vậy. Chẳng lẽ cùng Nội các mà Thủ tướng là bù nhìn tay sai Nhật, còn các thành viên khác thì không. 10 thành viên Nội các với 5 quan chức trọng trấn gắn bó chung quanh Trần Trọng Kim toàn là người có học vị, có uy tín. Nghĩa là đủ trình độ nhận biết bản chất vị Thủ tướng của mình. Họ thực lòng cộng sự đã nói lên nhân cách và uy tín của Trần Trọng Kim.
Điều không may cho Trần Trọng Kim là trước áp lực của tình thế với sự chỉ định của Quốc trưởng và tín nhiệm của đồng liêu ông phải làm Thủ tướng. Giá như Hoàng Xuân Hãn hoặc Phan Anh, Trịnh Đình Thảo hay Phan Kế Toại, thậm chí Trần Văn Lai, Kha Vạn Kân làm Thủ tướng thì Trần Trọng Kim tránh được “búa rìu của dư luận”. Và, nếu như Trần Trọng Kim thành lập Chính phủ bù nhìn thân Nhật sau ngày 19 – 8 – 1945 thì rõ ràng đúng như Giáo sư Vũ Ngọc Khánh viết: “Ông đã chọn lầm đường để chịu búa rìu dư luận”. Nhưng tháng 4 trước tháng 8 những 4 tháng. Thời điểm đó, Nhật không thể liên minh với Pháp để cùng chia sẻ Đông Dương. Người Việt Nam không thể dựa vào Pháp để giành độc lập. Tạm thời bắt tay với Nhật để yên thân thành lập một Chính phủ hợp hiến tìm sự ủng hộ của công luận trong và ngoài nước, trước khi Pháp gây hấn là toan tính khôn khéo của Trần Trọng Kim và Chính phủ. Pháp lo sợ điều này và săn đuổi Trần Trọng Kim là lẽ đương nhiên. Chẳng lẽ vì Pháp nghi ngờ nên ta cũng nghi ngờ theo. Một điều không nói ra nhưng ai cũng biết là Pháp quay lại Việt Nam lần này với hai sứ mạng. Một là giành Đông Dương từ tay Nhật bại trận. Hai là ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản. Chính phủ Trần Trọng Kim là trở lực của hai sứ mạng đó.
Tôi thích thú khi đọc được những dòng sau đây: “cho đến nay ta chưa phát hiện được tài liệu gì về vấn đề này (tay sai Nhật). Do ông và cả Nhật cố tình giữ kín nên không ai biết”. Không ai biết sao lại viết “ông và cả người Nhật cố tình giữ kín!”. Thì ra chê để vòng vo mà thanh minh, mà trình làng rằng mọi lời buộc tội Trần Trọng Kim làm tay sai Nhật đều là vũ đoán, đồn đại, không có cơ sở. Tất cả chỉ để vu vạ kiểu “cả vú lấp miệng em” đó thôi. Bởi, nếu cho rằng mọi sự bắt tay trong quan hệ bang giao là tay sai thì tội cho những người trước và sau Trần Trọng Kim lắm lắm.
Có một chi tiết đáng được lưu ý là Trần Trọng Kim và thành viên Nội các đang lựa chọn sắp xếp, khẩn thiết yêu cầu Nhật mở cửa các nhà tù của Pháp, ân xá toàn bộ chính trị phạm không điều kiện ngay lập tức trước khi thành lập Chính phủ. Nhật đã nhượng bộ. Nhờ vậy, Trương Văn Lĩnh cùng nhiều chiến sĩ ra khỏi nhà tù Hoả Lò và các nhà tù khác trên cả nước từ tháng 3 – 1945, kịp thời tham gia Tổng khởi nghĩa.
Với tôi, Trần Trọng Kim qua Việt Nam Sử Lược là một người yêu nước thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có nhân cách, một học giả xuất sắc đã cống hiến phần trí tuệ, chí ít cho các thế hệ nửa đầu thế kỷ XX và Chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm của tình thế với hoài bão bước đầu thực thi thể chế Quân chủ lập hiến đặt nền móng cho mô hình “Dân chủ Đại nghị” cổ điển về sau, của lớp nhân sĩ tri thức cũ biết lường trước hoạ binh đao nên tha thiết nhân nhượng, dung hoà.
Để cùng lớn lên xin đừng sợ sự thật.

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Ưu đãi đối với hội viên CLB Bohemia

Để nâng cao chất lượng sinh hoạt và dịch vụ của CLB văn học-nghệ thuật Bohemia.
Quán triệt tinh thần không ngừng thay đổi các loại hình hoạt động của CLB.
Như đã thông báo trong buổi gặp mặt đầu Xuân 2012.
Bắt đầu từ tháng 2.2012, vào tối ngày 15 hàng tháng từ 18h30 đến 20h30 tại tầng 2, số 9 Hoàng Cầu, diễn ra sinh hoạt "FREE CLUB",
có nghĩa là khi xuất trình thẻ CLB VH-NH Bohemia hợp lệ (có ảnh, họ và tên, đã ép plastic), hội viên sẽ được hưởng miễn phí 05 cốc bia 300 ml. 
Đồ ăn tự thanh toán.
Chương trình văn học, văn nghệ tự do, tùy theo khả năng (nếu hát karaoke xin đăng ký và mang theo đĩa).
Nhân viên phục vụ nhà hàng có trách nhiệm ghi họ tên, số thẻ và xin chữ ký xác nhận vào danh sách, bill.
Thẻ không được cho mượn, bán...
Mọi vi phạm sẽ bị sử lý bằng việc thu hồi thẻ và truất quyền thành viên CLB.
 Rất mong được các bạn hội viên hưởng ứng và tham gia tích cực.

Từ tháng 3.2012 khi sinh hoạt FREE CLUB, đặt các món ăn Séc sẽ được giảm giá 20%
(Xin báo trước 01 ngày).